CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ RỒNG ĐẠI VIỆT
Địa chỉ : Số 21 Đường 5A, KDC Ấp 5, Xã Phong Phú, Bình Chánh, TP HCM
Điện thoại : 028 3535 6079 – Hotline: 028 6657 6964
Email : info@rongdaiviet.com      Website: www.rongdaiviet.com
MANG CÔNG NGHỆ NUÔI TRỒNG VÀO CUỘC SỐNG
Kiến thức
Nucleotide - Không chỉ là thức ăn cho ấu trùng tôm

Giá trị dinh dưỡng của các nucleotide

Một nucleotide cơ bản bao gồm đạm (hoặc purine hay pyrimidine), đường pentose và một hoặc nhiều nhóm phosphate. Cũng như axit amin là đơn vị duy nhất của một chuỗi protein, nucleotide là các khối xây dựng cơ bản của axit nucleic RNA và DNA. Nghiên cứu gần đây cho thấy nucleotide là những dưỡng chất "bán cần thiết" cho động vật có vú, gia cầm và cá (Carver và Walker, 1995; Devresse, 1998).

Trong tôm, không biết liệu nucleotide có thể được tổng hợp hay không. Việc sản xuất các chất dinh dưỡng này cần sử dụng năng lượng chuyển hóa. Sau đó nó có thể được tích trữ, cũng như thức ăn tự nhiên của tôm có một nguồn cung cấp dồi dào các DNA và RNA, tôm có thể có năng lực hạn chế để tự tổng hợp. Vai trò tích cực của các nucleotide trong dinh dưỡng tôm đã được rút ra từ các thành phần như dung môi của cá, thịt cá, men và các chiết xuất từ men, được xem là thiết yếu trong sự phát triển của tôm. Những thành phần này đều có chung một hàm lượng cao của acid nucleic, dạng chuỗi tự nhiên của nucleotide. (Devresse, 2000).

Trong một số thí nghiệm, vai trò của nucleotide như là "chất kích thích miễn dịch" trong tôm con dưới điều kiện stress đã được nghiên cứu. Một chế độ thức ăn với nucleotide ở các cấp độ lên đến 0,2% giúp tăng tỉ lệ sống của tôm con  Penaeus monodon khi bị stress như thay đổi độ mặn và độ mặn rất cao (Hertrampf, 2003).

Nucleotide trong giai đoạn ấu trùng tôm nuôi có thể có một tác dụng có lợi đối với sự phát triển nhưng cho đến nay không có báo cáo nào về nucleotide như một thức ăn cho ấu trùng tôm.

Artemia là thức ăn của ấu trùng

Hiện nay thức ăn chính cho ấu trùng tôm là Artemia. Người ta ước tính rằng 85% các loài động vật biển nuôi là được nuôi bằng Artemia (Komis, 1992). Giá trị dinh dưỡng của các dòng Artemia là khác nhau (Bảng 1). Artemia mới nở có hàm lượng năng lượng cao, nhưng 48 giờ sau khi nở một phần lớn chất béo của chúng được sử dụng và hàm lượng năng lượng của chúng giảm (Landau, 1992).

Bảng 1: Thành phần hóa học của Artemia salina từ các quốc gia khác
 nhau (% trong vật chất khô) (Watanabe (1988)

Tuy nhiên, Artemia có thể được sử dụng để "bao nang sinh học" chất dinh dưỡng, do đó thành phần hóa học của chúng có thể được chế tác (Dhert và Sorgeloos, 1995). Điều này sẽ làm thay đổi các thành phần của chính Artemia như là cung cấp vào đường ruột của chúng với các chất dinh dưỡng bổ sung có trong tảo hoặc nấm men (Landau, 1992).

Dựa vào đặc điểm trên của Artemia, nó sẽ có thể nâng cao giá trị dinh dưỡng của ấu trùng Artemia bằng cách cho chúng ăn nucleotide. Trong trường hợp này ấu trùng Artemia sẽ hoạt động như một cơ chế chuyển giao nucleotide trong suốt các giai đoạn của ấu trùng tôm. Do đó, hệ thống miễn dịch của ấu trùng tôm có thể được tăng cường, tiếp theo là cải thiện tỷ lệ sống.

Nucleotide trong ương nuôi ấu trùng

Tuy nhiên, trong các thử nghiệm sơ bộ, đã quyết định cung cấp nucleotide trực tiếp cho tôm giống, thay vì thông qua ấu trùng Artemia và nghiên cứu ảnh hưởng của chúng. Giá trị dinh dưỡng của nucleotide cho ấu trùng tôm sau đó được so sánh với những ấu trùng Artemia không làm giàu.

Bảng 2: Giá trị dinh dưỡng của thức ăn ấu trùng tôm (% vật chất khô)
 được sử dụng trong các thí nghiệm.

Trong một loạt các thí nghiệm trên hai qui trình nuôi, Artemia đã hoàn toàn được thay thế bằng nucleotides làm thức ăn cho ấu trùng tôm sú (P. monodon). Trong giai đoạn trước khi thử nghiệm 5 ngày, 2.400 mysis-3 được thả trong 6 bể thủy tinh, mỗi bể 80 lít.

Sau đó chúng đã được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm lặp lại ba lần. Do đó mật độ thả là 5 ấu trùng trong mỗi lít nước.

Thời gian thử nghiệm thực tế kéo dài 15 ngày cho mỗi chu kỳ. Ở nhóm đối chứng, Artemia được cho ăn với tỷ lệ 10 con trên mỗi ấu trùng trong mỗi lần cho ăn. Trong nhóm điều trị, nucleotide được cho ăn hàng ngày với tỉ lệ 20% trọng lượng cơ thể của ấu trùng. Cho ăn 4 lần/ ngày với lần cho ăn đầu triên lúc 06:00 và lần cuối cùng lúc 22:00.

Các giá trị dinh dưỡng của cả hai loại thức ăn được cho trong bảng 2. Vì độ ẩm cao của ấu trùng Artemia, các chất dinh dưỡng được trình bày trên cơ sở chất khô. Rõ ràng là protein thô của Artemia là cao hơn đáng kể so với các nucleotide. Nhưng ngược lại, khả năng tiêu hoá của nucleotide là gấp đôi so với Artemia, như được chỉ ra bởi các giá trị tiêu hóa hydrochloric-pepsin. Hàm lượng chất béo thấp hơn trong ấu trùng Artemia so với trong trứng cho thấy nó đã được sử dụng năng lượng. Năng lượng tiêu hóa được tính toán cũng khác nhau đáng kể với sự vượt trội của các nucleotide. Điều này là do hàm lượng chất béo của ấu trùng Artemia thấp hơn.

Khoảng 50% lượng nước được thay hàng ngày. Các thông số nước đã được ghi lại và có nghĩa là chất lượng nước và các thông số vi sinh vật không cho thấy bất kỳ sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (Bảng 3).

Bảng 3: Các thông số chất lượng nước trong cả hai chu kỳ nuôi

Phân tích

Trong các thử nghiệm với tôm giống, các thông số như tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn không thể được ghi lại hoặc kết quả có thể là quá biến. Các thông số cho các loại hình thử nghiệm này là quan sát sức khỏe nói chung, tỷ lệ sống và phản ứng với stress của ấu trùng Post.

Tỷ lệ sống của ấu trùng trong chu kỳ đầu tiên là tốt hơn cho cả hai nhóm so với trong chu kỳ thứ hai (bảng 4). So với nhóm Artemia thì nhóm nucleotide có tỷ lệ sống tương ứng là 7,4% (chu kỳ đầu tiên) và 18,4% (chu kỳ thứ hai). Tuy nhiên, sự khác biệt không ý nghĩa thống kê.

Bảng 4: Các thông số của Penaeus monodon sau khi cho ăn Artemia và Nucleotides

Phân tích sức khỏe nói chung cho cả hai nhóm không cho thấy bất kỳ sự khác biệt (Bảng 5). Ấu trùng tiếp xúc với các bài kiểm tra stress khác nhau để xác định khả năng chống stress cho thấy cả hai nhóm có khả năng chống stress bằng 100% (bảng 4). Cho ba bài kiểm tra (kiểm tra độ mặn, kiểm tra formalin, kiểm tra nhiệt độ) tỷ lệ sống sót 100% được ghi nhận. Độ mặn đã giảm 25 ppt và sự sống còn ghi lại sau ba tiếng đồng hồ. Trong các thử nghiệm formalin, ấu trùng được tiếp xúc với 200 ppm formalin và sự sống còn ghi lại sau hai giờ. Trong các thử nghiệm nhiệt độ nước, nhiệt độ đã giảm xuống 10 ° C và sự sống còn ghi lại sau một giờ.

Bảng 5: Tình trạng sức khỏe của ấu trùng ở cuối các thử nghiệm

Nucleotide thích hợp làm thức ăn cho ấu trùng?

Ngoài các tính chất kích thích miễn dịch, các nucleotide đều có giá trị tốt khi cho ăn trực tiếp ở giai đoạn đầu của ấu trùng tôm. Quan sát đường ruột của tôm dưới kính hiển vi cho thấy rằng các nucleotide đã được chấp nhận và tiêu thụ tốt bởi ấu trùng.

Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sống sót giữa hai nhóm đã chứng minh rằng nucleotide là một lựa chọn phù hợp cùng với Artemia làm thức ăn cho ấu trùng. Một lợi thế nữa của thức ăn nucleotide là không mất thời gian ấp nở và chuẩn bị như trứng Artemia.

Tác dụng lâu dài

Những ảnh hưởng của thức ăn nucleotide trong giai đoạn đầu của ấu trùng tôm trên hiệu suất tăng trưởng trong tương lai là gì? Để tìm hiểu việc này, một thử nghiệm theo dõi với ấu trùng từ chu kỳ thứ hai của thí nghiệm trên đã được thực hiện. Trong các thí nghiệm, 32 ấu trùng được thả vào bể 80 lít. Trong ba phương pháp điều trị, hai lần lặp lại của các ấu trùng cho ăn bằng Artemia và nhóm ấu trùng dùng nucleotide được cho ăn bằng thức ăn công nghiệp. Một nhóm các ấu trùng dùng nucleotide được cho ăn thức ăn pelletised với 0,2% nucleotide. Thông số thực nghiệm tương tự như các nghiên cứu trước đây (Bảng 3). Tôm được cho ăn hàng ngày với liều lượng cho ăn 20% trọng lượng cơ thể bắt đầu bằng thức ăn pelletised. Cho ăn một ngày 4 cử.

Các kết quả của thử nghiệm này trong 60 ngày sử dụng Artemia và nucleotides cho thấy lợi thế của việc cho ăn nucleotide trong giai đoạn ấu trùng. Tỷ lệ chết thấp hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm đã cho ăn  Artemia trước đó, chứng minh tác dụng lâu dài của việc cho ăn nucleotide trong suốt giai đoạn ấu trùng. Tuy nhiên, mức tăng trọng và chuyển hoá thức ăn của nhóm nucleotide là tốt hơn một chút nhưng không đáng kể về mặt thống kê (Bảng 6)

Bảng 6: Hiệu suất của postlarva sau khi được cho ăn Artemia hoặc
 nucleotide trong giai đoạn đầu postlarval

Hơn nữa, hiệu quả của việc cho ăn 0,2% nucleotide với tôm con của nhóm dùng nucleotide thể hiện rõ tính chất kích thích miễn dịch của sản phẩm. Tăng trọng, tốc độ tăng trưởng cụ thể và tỷ lệ chết được cải thiện đáng kể về mặt thống kê. Điều này có nghĩa rằng, không có bất kỳ tình huống bị stress nào, trong điều kiện bình thường, nucleotide cũng có hiệu suất phát huy tác dụng.

Kết luận

Mặc dù không có sự khác biệt đáng kể trong các thông số thử nghiệm giữa thức ăn nucleotide và Artemia cho ấu trùng tôm, nhưng có những lợi ích có thể có lợi cho các hậu ấu trùng. Các thử nghiệm tiếp theo với hậu ấu trùng Postlarvae cho thấy những ưu điểm của thức ăn nucleotide. Bên cạnh tính chất kích thích miễn dịch, nucleotide có hiệu suất phát huy tác dụng.

Tác giả:  J.W. Hertrampf, S.K. Mishra; P.K. Biswal

Tiến sĩ Joachim W. Hertrampf là một nhà tư vấn về chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản có trụ sở tại Kuala Lumpur. P.K. Biswal là quản lý và S.K. Mishra là nhà điều hành cấp cao của các đơn vị R & D của Waterbase Limited, Ấn Độ.

Nguồn: AQUACULTURE ASIA PACIFIC MAGAZINE

Copyright © 2013 rongdaiviet.com, All right reserved Counter : 258518